Bảo hiểm khi vay vốn là một vấn đề rất nhức nhối đối với người Nga. Mặc dù quy trình này vốn đi kèm với việc đăng ký thế chấp, nhưng nó lại gây ra nhiều ý kiến trái chiều. Một số người tin rằng sự hiện diện của bảo hiểm là một dấu hiệu của sự văn minh của hệ thống ngân hàng Nga, và việc đăng ký nó khẳng định trách nhiệm, sự khôn ngoan và tầm nhìn xa của người đi vay. Những người khác thì ngược lại, không thấy bảo hiểm có lợi gì, coi dịch vụ này chỉ là một khoản chi phí bổ sung.
Bảo hiểm khoản vay cầm cố bắt buộc tự nguyện
Đạo luật quy phạm chính điều chỉnh các quan hệ thế chấp là Luật Liên bang số 102 năm 1998 “Về Thế chấp”. Vấn đề bảo hiểm được nêu trong Điều 31 của luật. Điều khoản này quy định rằng người đi vay có nghĩa vụ bảo đảm tài sản thế chấp khỏi những thiệt hại có thể xảy ra bằng chi phí của mình. Theo quy định, bất động sản nhà ở được mua theo hình thức tín dụng đóng vai trò là tài sản đảm bảo cho một khoản vay thế chấp.
Do đó, người đi vay có nghĩa vụ chỉ bảo hiểm tài sản có được bằng chi phí vay vốn, còn mọi thứ khác (bảo hiểm quyền sở hữu, bảo hiểm nhân thọ và sức khỏe) được thực hiện trên cơ sở tự nguyện. Tuy nhiên, các chủ ngân hàng không bỏ lỡ cơ hội kiếm được nhiều tiền hơn, và các công ty bảo hiểm sẵn sàng hỗ trợ sáng kiến như vậy từ các ngân hàng. Vì vậy, trong hợp đồng cho vay thế chấp, bạn thường có thể tìm thấy một điều khoản như "bảo hiểm toàn diện cho khoản vay thế chấp", và nếu người đi vay từ chối tuân thủ các yêu cầu của chương trình này, ngân hàng chỉ cần từ chối cấp khoản vay. Đúng như vậy, xu hướng này đã thay đổi đáng kể sau thời kỳ khủng hoảng, khi người đi vay không có khả năng chi trả cho các khoản bảo hiểm đắt đỏ và nhiều ngân hàng buộc phải từ bỏ "bảo hiểm toàn diện".
Nhưng các tổ chức tín dụng, ngay cả trong tình huống như vậy, đã tìm ra lối thoát bằng cách phát triển một số chương trình thế chấp cùng một lúc. Đối với các chương trình không cung cấp “bảo hiểm toàn diện” bắt buộc, tỷ lệ thế chấp sẽ cao hơn khoảng 2-3%. Hơn nữa, sự khác biệt vài phần trăm là xa so với con số cuối cùng. Chẳng hạn, một số nhân viên ngân hàng đưa ra mức lãi suất này ở mức 8 - 10 điểm. Tất nhiên, ngay cả sau khi tính toán sơ bộ, người đi vay vẫn đưa ra lựa chọn có lợi là vay thế chấp bằng tất cả các loại bảo hiểm.
Chúng tôi bảo hiểm những gì và chi phí bao nhiêu?
Bảo hiểm thế chấp giả định sự hiện diện của một số vật phẩm cùng một lúc, mỗi vật phẩm có chi phí riêng. Có vẻ như nếu luật pháp quy định bảo hiểm cho khoản cầm cố thì loại hình bảo hiểm này có thể đắt nhất, nhưng các công ty bảo hiểm thích kiếm tiền dựa trên khả năng lao động, tính mạng và sức khỏe của người đi vay. Chi phí của dịch vụ này trung bình bằng 1-2% quy mô của khoản vay thế chấp. Hơn nữa, cuộc sống của người vay càng rủi ro thì dịch vụ này càng khiến anh ta phải trả giá đắt hơn. Vì vậy, bảo hiểm sẽ tính đến độ tuổi của người vay (càng nhiều năm, bảo hiểm càng đắt), giới tính (phụ nữ thì rẻ hơn, vì theo thống kê họ sống lâu hơn), tình trạng sức khỏe (được DNBH công nhận từ của khách hàng, nhưng một số công ty bảo hiểm buộc phải cung cấp giấy chứng nhận đã khám sức khỏe đầy đủ).
Một loại dịch vụ bảo hiểm khác đi kèm với thế chấp là bảo hiểm quyền sở hữu. Chi phí của dịch vụ này sẽ phụ thuộc vào "lịch sử" của bất động sản được mua. Nếu nó thuộc về thị trường sơ cấp, thì rủi ro là tối thiểu và chi phí phù hợp. Nếu nhà ở được mua trên thị trường thứ cấp, thì nguy cơ tước đoạt quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu hiện tại tăng lên đáng kể, do đó sẽ ảnh hưởng đến chi phí bảo hiểm.
Bảo hiểm tài sản đảm bảo đứng cuối danh sách và được coi là dịch vụ bảo hiểm rẻ nhất (từ 0,05 đến 0,1%). Cũng cần lưu ý rằng người vay chỉ có thể được bảo hiểm trong một công ty bảo hiểm được ngân hàng công nhận, điều này khiến anh ta mất quyền lựa chọn. Mặc dù, theo quy định của pháp luật, người vay có quyền lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm và chào bán cho tổ chức tín dụng, nhưng liệu họ có được công nhận hay không là một vấn đề còn rất nhiều tranh cãi.